Mụn nhọt và viêm da là những bệnh lý thường gặp với da và có thể để lại sẹo, làm mất tính thẩm mỹ nếu không được chữa trị đúng cách.
Nội dung bài viết
1. Mụn trứng cá
Nguyên nhân
Mụn trứng cá là bệnh da liễu được đặc trưng bởi tình trạng viêm khu trú vùng nang lông – tuyến bã. Cơ chế sinh bệnh được xác định cho đến thời điểm hiện nay là do: sự tăng tiết bã nhờn, sự sừng hóa (keratin hóa) bất thường của phễu nang lông, sự liên quan của trực khuẩn kị khí gram dương Propionibacterium acnes, và các loại phản ứng viêm.
Mụn trứng cá thường không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, tuy nhiên, bệnh có xu hướng tồn tại dai dẳng, hay tái phát, với biến chứng thường gặp là sẹo lõm, hoặc sẹo lồi, gây mất thẩm mỹ, làm suy giảm đáng kể đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Có sự liên hệ khá rõ ràng giữa bệnh lý mụn trứng cá và xu hướng trầm cảm, đặc biệt là ở người trẻ.
Triệu chứng
- Trứng cá nhẹ: có đầu đen (đầu trứng cá hở, nhân tiếp xúc với không khí và bị chuyển màu thành đen) và đầu trắng (đầu trứng cá có màng bao bọc, không tiếp xúc với môi trường ngoài), kèm một số nốt sần và nốt có mủ. Trứng cá nhẹ thường tự hết trong vòng 1-2 tuần, không để lại sẹo mà không cần phải dùng thuốc. Có thể xịt nhẹ dung dịch băng vết thương Nacurgo lên vùng trứng cá để tránh nốt trứng cá nhiễm khuẩn và trở nên nặng hơn.
Nacurgo màng sinh học
- Trứng cá vừa: nốt sần màu đỏ, hơi đau, nốt có mủ nhiều hơn, và có tạo sẹo nhỏ, diễn tiến dai dẳng, có những đợt thoái lui. Dễ tái phát khi sử dụng các chất kích thích: Rượu, bia, thuốc lá… hoặc phát triển và thoái triển theo chu kỳ kinh nguyệt (ở nữ giới)
- Trứng cá nặng: có các cục nhỏ có viêm, đau nhiều, có phù nề, và nốt sần, nốt có mủ rất nhiều, có thể gây sẹo lớn
Chăm sóc và điều trị
Việc điều trị nhằm giảm quần thể vi khuẩn trong nang lông, giảm sinh bã nhờn, giảm viêm, loại bỏ lớp keratin che lấp nang. Các thuốc dùng gồm có các chất ly giải keratin và chất kháng khuẩn. Khi thuốc bôi ngoài không có tác dụng, cần dùng thuốc uống, đáp ứng với thuốc thường chậm và phải điều trị lâu dài. Kinh nghiệm điều trị: Trong thời gian điều trị bệnh, bệnh nhân tuyệt đối không được sờ hay nặn mụn gây viêm nhiễm lan rộng (bội nhiễm) gây ảnh hưởng đến kết quả điều trị
- Trứng cá nhẹ: Dùng thuốc bôi ngoài, đặc biệt là benzoyl peroxid, chất kháng khuẩn và retinoid. Acid azelaic có thể dùng thay thế benzoyl peroxid. Khi phối hợp retinoid với kháng sinh erythromycin sẽ hiệp đồng tác dụng, nhanh chóng cho hiệu quả điều trị. Các thuốc kháng khuẩn bôi ngoài cũng là thuốc đầu tiên dùng đến sau khi liệu pháp benzoyl peroxid không hiệu quả, dùng các dung dịch tetracylin, clindamycin, erthromycin để bôi ngoài, và các chất này có tác dụng tương đương nhau. Dùng thuốc kháng khuẩn bôi ngoài chỉ nên kéo dài 10 đến 12 tuần, không dùng đồng thời thuốc bôi ngoài với thuốc uống hay loại nọ kế tiếp loại kia.
- Trứng cá vừa: Dùng thuốc kháng khuẩn đường uống là tốt nhất, kết hợp với thuốc bôi ngoài. Tất cả các thuốc kháng khuẩn được dùng ít nhất trong 3 tháng, có những trường hợp phải điều trị tới 2 năm hay lâu hơn nữa. Đối với các bệnh nhân nữ có trứng cá vừa nhưng phải dùng thuốc tránh thai, thì nên dùng thuốc tránh thai chứa một progrestogen không androgen nhưng cần hết sức lưu ý tác dụng phụ khi dùng đường uống kéo dài.
- Trứng cá nặng: Thường dùng isotretionin theo đường uống, nếu những bệnh nhân không dùng được loại thuốc này có thể dùng thuốc kháng khuẩn với liều cao. Đối với những bệnh nhân nữ chống chỉ định dùng estrogen có thể dùng spironolacton, dựa vào tính kháng androgen của nó, kết hợp dùng thuốc bôi ngoài trứng cá nhẹ.
Bên cạnh việc điều trị thuốc uống và thuốc bôi với trứng cá vừa và nặng, bác sĩ có thể cho dùng Băng vết thương dạng xịt Nacurgo khi vết trứng cá đã ổn định để bao phủ, bảo vệ tránh nhiễm khuẩn và giảm hình thành sẹo.
2. Nhọt
Nhọt là những u bướu nhỏ chứa đầy mủ và đau nhức. Nhọt hình thành dưới da, khi vi khuẩn xâm nhập vào nơi lông hình thành (nang lông) và phát triển thành mầm bệnh. Nhọt có thể xuất hiện mọi nơi trên cơ thể, nhưng phần lớn thường thấy trên đầu, mặt, cổ, nách, mông và đùi.
Nguyên nhân
Hầu hết do một loại vi khuẩn (tụ cầu). Vi khuẩn này xâm nhập vào cơ thể qua vết xước nhỏ, vết cắt trên da hoặc các nang lông. Bệnh tiểu đường, hệ miễn dịch suy giảm, thiếu dinh dưỡng, vệ sinh kém, tiếp xúc với các hóa chất mạnh gây kích ứng da cũng là nguyên nhân gây ra nhọt.
Đặc điểm
Nhọt xuất hiện đột ngột như một vết sưng màu hồng hoặc đỏ, đau nhức. Da xung quanh cũng có thể đỏ và sưng lên. Trong vòng một vài ngày, vết sưng đầy mủ, phát triển lớn hơn và đau hơn. Khi nhọt vỡ mủ, có thể có một hoặc nhiều ngòi lỗ chỗ như tổ ong. Nhọt nhỏ thường lành mà không có sẹo, nhưng nhọt lớn có thể để lại sẹo. Nếu nhọt to, số lượng nhiều thì có thể kèm theo sốt, hạch bạch huyết sưng đau.
Phòng chống
Mặc dù không phải luôn luôn có thể ngăn ngừa nhọt, đặc biệt là nếu có hệ thống miễn dịch bị tổn hại, các biện pháp sau đây có thể giúp tránh nhiễm khuẩn tụ cầu khuẩn gây ra nhọt:
- Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng nhẹ, hoặc sử dụng tay chà cồn thường xuyên nhằm ngăn ngừa vi khuẩn.
- Làm sạch vết cắt nhỏ và thậm chí cả vết xước, giữ cho vết thương được bảo vệ bằng Nacurgo cho đến khi vết thương lành hẳn.
- Giữ vật dụng cá nhân. Tránh dùng chung các đồ cá nhân, chẳng hạn như khăn tắm, dao cạo, quần áo và trang thiết bị thể thao. Nhiễm khuẩn tụ cầu khuẩn có thể lây lan qua các đối tượng cũng như từ người sang người. Nếu có một vết cắt hoặc đau, rửa khăn tắm và khăn trải bằng cách sử dụng chất tẩy rửa và nước nóng thêm với thuốc tẩy và làm khô chúng trong máy sấy nóng.
Cách chăm sóc và điều trị
- Giữ gìn vệ sinh sạch sẽ.
- Dùng kháng sinh, càng sớm càng tốt (có thể dùng đường uống, tiêm hoặc truyền tĩnh mạch, tùy mức độ nặng hay nhẹ).
- Dùng các vitamin, đạm, gamma globulin để nâng cao sức đề kháng của cơ thể.
- Tại chỗ: tuyệt đối không chích nặn ở giai đoạn đang viêm tấy, chưa hóa mủ để tránh biến chứng nhiễm khuẩn huyết.
- Đến các trung tâm y tế hoặc bệnh viện để được tư vấn và điều trị nếu: Nhọt đau nhức nhiều hoặc nhọt lớn, sốt, sưng đỏ xung quanh nhọt vì đây có thể là dấu hiệu vi khuẩn đã xâm nhập vào mạch máu; Nhọt không giảm khoảng ngày thứ 10; Đã điều trị nhọt mà không khỏi trong 14 ngày.
- Nacurgo có thể được bác sĩ sử dụng giúp bao phủ, bảo vệ vết thương do nhọt tránh nhiễm khuẩn, thấm nước và kích thích vết thương mau lành, không để lại sẹo.
- Có chế độ ăn kiêng hợp lý tránh vết thương mưng mủ.
3. Viêm da
Nguyên nhân
Viêm da chính là một phản ứng của da trước các yếu tố kích thích từ môi trường bên ngoài như nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, các sang chấn cơ học và hóa học trên da hoặc các loại kháng nguyên gây dị ứng cho da.
Mặc dù các bệnh viêm da đều không nguy hiểm đến tính mạng người bệnh và không lây lan nhưng thường diễn biến rất dai dẳng và gây ra khá nhiều phiền toái cho người bệnh.
Đặc điểm
Đặc trưng bởi tình trạng viêm nông trên bề mặt của da, gây ra các biểu hiện ngứa, nề đỏ, nổi mụn nước, khi vỡ gây tiết dịch và đóng vảy, hay gặp nhất là viêm da tiếp xúc, viêm da cơ địa, viêm da dầu, viêm da thần kinh, tổ đỉa và đỏ da toàn thân. Biến chứng thường gặp của tất cả các bệnh viêm da này là dày da do gãi nhiều và nhiễm trùng tại các vết trợt loét.
Một số dạng viêm da và cách điều trị
Viêm da tiếp xúc: Là dạng viêm da gây ra do sự tiếp xúc trực tiếp của da với một số kích thích từ môi trường như thuốc, hóa chất, sơn, cao su, các kim loại nặng hoặc ánh sáng.
Điều trị: Vị trí tổn thương thường gợi ý rất nhiều cho việc xác định nguyên nhân gây viêm da tiếp xúc. Xác định và loại bỏ nguyên nhân gây bệnh là biện pháp quan trọng nhất trong điều trị và dự phòng viêm da tiếp xúc.
Viêm da cơ địa: Là một trong những bệnh lý ở da hay gặp nhất, thường xuất hiện ở những người có cơ địa mắc các bệnh dị ứng như hen phế quản, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn… Hơn 90% các trường hợp bệnh khởi phát ở trẻ dưới 5 tuổi và kéo dài đến tuổi trưởng thành.
Ở trẻ em, ban đỏ và mụn nước thường xuất hiện ở mặt, da đầu, vùng quấn tã, bàn tay, bàn chân, cẳng tay, cẳng chân. Ở người lớn, ban đỏ thường chỉ tái diễn ở một vài vị trí, chủ yếu là ở cánh tay, bàn tay, khuỷu tay và khoeo chân. Ban đỏ trong viêm da cơ địa rất ngứa.
Điều trị: Viêm da cơ địa không thể điều trị khỏi, dùng các thuốc kháng histamin thế hệ 1 và mỡ corticosteroid bôi tại chỗ giúp giảm khá tốt biểu hiện ngứa. Corticosteroid đường toàn thân chỉ nên sử dụng trong những trường hợp bệnh dai dẳng. Lưu ý giữ ẩm da, tránh tiếp xúc với các chất gây kích ứng da và các tác nhân làm nặng bệnh.
Viêm da dầu: Là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng bong vảy ở mặt và da đầu. Viêm da dầu thường xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi hoặc ở người lớn trên 30 tuổi, bệnh thường gặp hơn ở nam giới, có tính gia đình và nặng lên vào mùa lạnh. Viêm da dầu thường xuất hiện từ từ, gây ra vảy gầu khô và dính ở da đầu, đôi khi gây ngứa và không làm rụng tóc.
Điều trị: Vảy ở da đầu có thể được điều trị với các loại dầu gội ngứa pyrithion kẽm, selenium sulfid, salicylic acid, lưu huỳnh hoặc ketoconazol. Những trường hợp có vảy dày cần được điều trị bằng các loại kem có chứa corticosteroid hoặc salicylic acid. Việc điều trị thường phải kéo dài nhiều tuần, nếu sau khi ngừng điều trị mà bệnh tái phát thì việc điều trị có thể bắt đầu lại từ đầu. Lưu ý khi dùng các loại kem chứa corticosteroid cho tổn thương ở da mặt hoặc cho trẻ em, nên ưu tiên sử dụng những loại có tác dụng nhẹ như hydrocortison, dexamethason.
Bên cạnh dùng thuốc bôi, thuốc uống điều trị nguyên nhân gây viêm da, Nacurgo được sử dụng để bao phủ, bao vệ vết thương do viêm da, tránh nhiễm khuẩn và không để lại sẹo.
Để biết thêm thông tin, vui lòng gọi về tổng đài miễn cước 1800 6626 (trong giờ hành chính)
Bạn cũng có thể dễ dàng tra cứu ĐỊA ĐIỂM NHÀ THUỐC bán Nacurgo thuận tiện nhất TẠI ĐÂY
Xem thêm:
Chăm sóc SẸO mới hình thành và làm mờ rõ rệt SẸO LÂU NGÀY cực hiệu quả tại nhà!